Giảm phát thải CO2 từ sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL
Các chuyên gia đưa ra nhiều giải pháp để giảm phát thải khí nhà kính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi tại Đồng bằng sông Cửu Long.
Chiều 23/8, Trường ĐH Nông lâm TP.HCM phối hợp cùng một số đơn vị tổ chức tọa đàm Thực trạng và chiến lược phát triển Hệ thống lương thực thực phẩm phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nhằm đảm bảo phát triển kinh tế xã hội và giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Cần giải pháp giảm phát thải theo chuỗi
Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS Phan Tại Huân, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Nông lâm TP.HCM cho biết, hiện toàn cầu đang đối mặt với việc biến đổi khí hậu và các quốc quốc đã cùng cam kết giảm thiểu khí CO2 cũng như các khí làm ảnh hưởng đến nền sản xuất lương thực.
PGS.TS Phan Tại Huân, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Nông lâm TP.HCM (Ảnh: Mỹ Quỳnh).
Tại Việt Nam, ĐBSCL đóng vai trò quan trọng trong chiến lược an ninh lương thực quốc gia. Việc tìm hiểu thực trạng phát thải tại đây sẽ định hình xu hướng phát triển hệ thống thực phẩm phát thải thấp. Đây là tiền đề thực thi giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đảm bảo mục tiêu Chính phủ cam kết là giảm phát thải ròng khí carbon về 0 vào năm 2050.
Theo ông Huân, trước đây có nhiều cách tiếp cận giảm phát thải, tuy nhiên, chỉ dừng lại ở mức đơn lẻ như ở khâu sản xuất thực phẩm, chế biến giảm thiểu phụ phẩm, phế phẩm...
Với bối cảnh hiện nay, việc giảm phát thải phải thực hiện theo chuỗi. Trong sản xuất, nuôi trồng, phải đi từ trang trại tới bàn ăn, nghĩa là tất cả các khâu từ sản xuất, thu hoạch, xử lý sau thu hoạch, tồn trữ trung gian, vận chuyển về nơi chế biến, phát sinh phụ phẩm, phế phẩm... cho đến người tiêu dùng, sản phẩm dư thừa từ người dùng...
Toàn cảnh buổi tọa đàm (Ảnh: Mỹ Quỳnh).
Do đó, tọa sẽ mang đến cách tiếp cận mới mẻ; các chuyên gia cùng tìm hiểu, thảo luận để mang đến nhận thức giảm phát thải trên toàn chuỗi hệ thống thực phẩm.
Ông Huân cho rằng, nếu tác động ở nhiều khâu, có sự phối hợp, đặc biệt nhà nước có chính sách vận hành giảm khí thải đồng bộ, hỗ trợ các khâu... để mang đến sự tác động tổng hợp, thay vì chỉ ở một khâu nào đó.
Những thách thức và cơ hội
TS.Phạm Thu Thủy, Tổ chức CIFOR-ICRAF, Đại học Adelaide (Úc) chia sẻ, phát thải trong lĩnh vực lương thực thực phẩm chiếm khoảng 31% phát thải toàn cầu. Riêng tại Việt Nam, lượng phát thải của hệ thống lương thực thực phẩm chiếm khoảng 1% lượng phát thải của hệ thống lương thực thực phẩm toàn cầu.
Bà Thủy nhận định, dù lượng phát thải của hệ thống lương thực thực phẩm tại Việt Nam thấp hơn nhiều quốc gia khác nhưng tốc độ phát thải cũng đang có dấu hiệu tăng.
TS Phạm Thu Thủy, Tổ chức CIFOR-ICRAF đánh giá các thách thức giảm phát thải tại Đồng bằng sông Cửu Long (Ảnh: Mỹ Quỳnh).
Cụ thể, phát thải năm 2020 tăng 8% so với 2010. Hiện sản phẩm nông - lâm - thủy - hải sản của Việt Nam xuất khẩu ra nhiều quốc gia trên thế giới, do đó, việc kiểm soát lượng phát thải là rất quan trọng.
Bà Thủy nói thêm, nếu Việt Nam không nhanh chóng kiểm soát lượng phát thải, khả năng các quốc gia trên thế giới chuyển thị trường sang các quốc gia khác có lượng phát thải thấp hơn. Chưa kể, mục tiêu hướng đến phát thải ròng của Chính phủ khó hoàn thành.
Trong đó, phải đánh giá cả chuỗi từ nguồn cung đầu vào, chế biến, đóng gói, vận chuyển… đến tiêu dùng để có đánh giá tổng quát nhất về lượng phát thải của hệ thống lương thực thực phẩm và có những chính sách phù hợp.
Tuy nhiên, theo bà Thủy, hiện có nhiều hạn chế để xây dựng chiến lược giảm phát thải ở khu vực ĐBSCL như quy hoạch vùng và ngành, thu hút đầu tư chưa hiệu quả, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, nhân lực còn kém so với cả nước…
Khâu tổ chức sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật tại Đồng bằng sông Cửu Long chưa đồng bộ (Ảnh: Q.H).
PGS.TS Kha Chấn Tuyền, Trường ĐH Nông lâm TPHCM cũng thừa nhận, thách thức lớn nhất của nông nghiệp vùng ĐBSCL chính là khâu tổ chức sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật còn manh mún, nhỏ lẻ.
Ông Tuyền cho rằng, nông nghiệp ĐBSCL cần tránh phát triển theo chiều rộng, mang tính tự phát, phá vỡ các quy hoạch ngắn hạn và dài hạn...
PGS.TS Kha Chấn Tuyền, Trường ĐH Nông lâm TP.HCM (Ảnh: Mỹ Quỳnh).
Trên cơ sở những nghiên cứu từ thực tế, ông Tuyền đề nghị cần nhanh chóng nghiên cứu và định hướng thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp đặc thù cho từng địa phương ở ĐBSCL.
Đặc biệt, cần phân tích và thử nghiệm ứng dụng cơ giới hóa trong các khâu có chỉ số MI thấp trong các hoạt động sản xuất lúa, cây có múi, lợn, vịt, tôm và cá.
Đồng thời, cần sớm quy hoạch sản xuất nông nghiệp tập trung để tạo nguồn nguyên liệu đủ lớn cho sản xuất có giá trị gia tăng cao và nhanh chóng ứng dụng các kỹ thuật công nghệ số để nâng cao chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, giảm thất thoát sau thu hoạch.
"Xây dựng chiến lược quốc gia toàn diện về ứng dụng công nghệ số để đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm cho nông sản, thực phẩm Việt Nam theo chuẩn quốc tế, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn có thể xuất khẩu với số lượng và giá trị gia tăng cao", PGS.TS Kha Chấn Tuyền nói.